Đối với hàng bao, người ta giao nhận hàng bằng cách đếm số lượng bao. Đối với hàng kiện, người ta giao và nhận hàng bằng cách đếm số kiện. Vậy đối với hàng rời, người ta phải giao và nhận hàng bằng cách nào?
Người ta giao hàng bằng mớn nước của tàu. Cách giao hàng bằng mớn nước của tàu, gọi là giám định mớn nước.
Nguyên tắc giám định mớn nước là nguyên tắc “cân trừ bì”.
Người ta “cân” tàu ở trạng thái không hàng, sau đó lại “cân” tàu ở trạng thái có hàng. Hiệu số hai lần “cân” tức là trọng lượng hàng có trên tàu.
Bạn tưởng tượng con tàu nổi trên mặt nước giống như một chiếc đĩa đựng đồ vật đặt trên một chiếc cân lò xo. Trị số chỉ báo số cân không vạch trên đồng hồ mà vạch ở vỏ tàu.
Khi tàu không có hàng, độ chìm mớn nước của tàu “không hàng” sẽ biểu thị trọng lượng tàu khi không hàng. Đó là trọng lượng vỏ tàu, nhiên liệu, nước ngọt, nước dằn và vật tư thiết yếu trên tàu.
Khi tàu có hàng, độ chìm mớn nước tương ứng sẽ biểu thị trọng lượng của tàu khi có hàng. Đó trọng lượng hàng hóa, trọng lượng vỏ tàu, nhiên liệu, nước ngọt, nước dằn và vật tư thiết yếu trên tàu.
Như vậy, lượng thay đổi chiều chìm mớn nước của tàu trong 2 lần đọc mớn nước sẽ biểu thị “độ lớn” trọng lượng hàng đã xếp dỡ .
Thật không ngoa khi nói rằng: trọng lượng hàng vừa xếp dỡ trên tàu là 4m, 5m, hay 6m…
Và giả sử lượng hàng làm mớn nước trung bình của tàu thay đổi 1cm chiều chìm là 20 tấn(TPC), thì số hàng có thể tính tương đối là:
1) nếu chiều chìm của tàu thay đổi 4m
400 cm x 20 tấn/cm = 8000 tấn
2) nếu chiều chìm của tàu thay đổi 5m
500 cm x 20 tấn/cm = 10.000 tấn
3) nếu chiều chìm của tàu thay đổi 6m
600 cm x 20 tấn/cm = 12.000 tấn
Song hàng hóa là tiền bạc, không thể tính “tương đối” được mà phải tính chính xác. Sai số của các cân dùng trên thị trường không được quá 5 phần nghìn. Giám định mớn nước cũng vậy, sai số không được quá 5 phần nghìn.
Để bảo đảm độ chính xác khi giám định, người ta phải nâng cao độ chính xác khi đọc mớn nước; hiệu chỉnh sai số số đọc mớn nước do vị trí đánh dấu mớn nước trên vỏ tàu không nằm đúng sống mũi, tâm gót lái và giữa chiều dài của tàu; hiệu chỉnh sai số mớn nước giữa để loại trừ sai số do hiện tượng cong, võng vỏ tàu gây nên; hiệu chỉnh sai số lượng giản nước do mớn nước mũi lái không bằng nhau; hiệu chỉnh sai số lượng giản nước do tỷ trọng thực tế khi giám định không trùng với tỷ trọng nước biển tiêu chuẩn.
Nguồn: Bài viết của Capt. Trai
Nguồn bài viết: [You must be registered and logged in to see this link.]
Người ta giao hàng bằng mớn nước của tàu. Cách giao hàng bằng mớn nước của tàu, gọi là giám định mớn nước.
Nguyên tắc giám định mớn nước là nguyên tắc “cân trừ bì”.
Người ta “cân” tàu ở trạng thái không hàng, sau đó lại “cân” tàu ở trạng thái có hàng. Hiệu số hai lần “cân” tức là trọng lượng hàng có trên tàu.
Bạn tưởng tượng con tàu nổi trên mặt nước giống như một chiếc đĩa đựng đồ vật đặt trên một chiếc cân lò xo. Trị số chỉ báo số cân không vạch trên đồng hồ mà vạch ở vỏ tàu.
Khi tàu không có hàng, độ chìm mớn nước của tàu “không hàng” sẽ biểu thị trọng lượng tàu khi không hàng. Đó là trọng lượng vỏ tàu, nhiên liệu, nước ngọt, nước dằn và vật tư thiết yếu trên tàu.
Khi tàu có hàng, độ chìm mớn nước tương ứng sẽ biểu thị trọng lượng của tàu khi có hàng. Đó trọng lượng hàng hóa, trọng lượng vỏ tàu, nhiên liệu, nước ngọt, nước dằn và vật tư thiết yếu trên tàu.
Như vậy, lượng thay đổi chiều chìm mớn nước của tàu trong 2 lần đọc mớn nước sẽ biểu thị “độ lớn” trọng lượng hàng đã xếp dỡ .
Thật không ngoa khi nói rằng: trọng lượng hàng vừa xếp dỡ trên tàu là 4m, 5m, hay 6m…
Và giả sử lượng hàng làm mớn nước trung bình của tàu thay đổi 1cm chiều chìm là 20 tấn(TPC), thì số hàng có thể tính tương đối là:
1) nếu chiều chìm của tàu thay đổi 4m
400 cm x 20 tấn/cm = 8000 tấn
2) nếu chiều chìm của tàu thay đổi 5m
500 cm x 20 tấn/cm = 10.000 tấn
3) nếu chiều chìm của tàu thay đổi 6m
600 cm x 20 tấn/cm = 12.000 tấn
Song hàng hóa là tiền bạc, không thể tính “tương đối” được mà phải tính chính xác. Sai số của các cân dùng trên thị trường không được quá 5 phần nghìn. Giám định mớn nước cũng vậy, sai số không được quá 5 phần nghìn.
Để bảo đảm độ chính xác khi giám định, người ta phải nâng cao độ chính xác khi đọc mớn nước; hiệu chỉnh sai số số đọc mớn nước do vị trí đánh dấu mớn nước trên vỏ tàu không nằm đúng sống mũi, tâm gót lái và giữa chiều dài của tàu; hiệu chỉnh sai số mớn nước giữa để loại trừ sai số do hiện tượng cong, võng vỏ tàu gây nên; hiệu chỉnh sai số lượng giản nước do mớn nước mũi lái không bằng nhau; hiệu chỉnh sai số lượng giản nước do tỷ trọng thực tế khi giám định không trùng với tỷ trọng nước biển tiêu chuẩn.
Nguồn: Bài viết của Capt. Trai
Nguồn bài viết: [You must be registered and logged in to see this link.]